Nghề gác kèo ong của người dân ở hai huyện U Minh và Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau là nghề truyền thống được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Theo các bậc cao niên trong nghề thì gác kèo ong hình thành rất sớm, từ những ngày đầu tiên con người đặt chân đến vùng đất này khai hoang mở cõi khoảng nửa cuối thế kỷ thứ XIX.
Người gác kèo giỏi cần phải có kỹ thuật, kinh nghiệm và bí quyết gia truyền. Nghề gác kèo mang đến cho đời nhiều mật ngọt và sinh ra nhiều thế hệ nghệ nhân lão luyện, có kinh nghiệm và tri thức, tâm huyết với nghề, yêu rừng và đàn ong.Vào tháng 11 – 12 hằng năm, khi rừng U Minh hoa tràm nở rộ, các loài ong bay về chọn những nhánh tràm nằm xiên để đóng tổ. Biết quy luật này, những cư dân sống giữa rừng tràm bạt ngàn này phát hiện ra tập tính của loài ong mật là chỉ làm tổ ở những thân cây nghiêng như kèo nhà, từ đó họ tìm hiểu, nghiên cứu rồi nghĩ ra cách làm nhà cho ong, và nghề gác kèo ong ra đời như vậy.
Những người thợ cho hay khoảng cuối năm là thời điểm chuẩn bị vào mùa gác kèo ong. Đây là dịp để người thợ trình diễn tay nghề và kinh nghiệm của mình, đồng thời cũng là nguồn thu nhập chính của rất nhiều hộ gia đình theo nghề “ăn ong” lấy mật. Khoảng tháng 5 đến tháng 8, những thợ rừng lại tiếp tục công việc gác kèo. Tuy nhiên, mật ong mùa nước chất lượng không bằng mùa khô.
Để thực hiện việc gác kèo ong, người thợ đầu tiên phải chuẩn bị bộ kèo, gồm thân kèo, trụ đỡ và cây nạng. Bộ kèo này thông thường được làm từ cây tràm, thân suông, có đường kính từ 10-15 cm, lột sạch vỏ, khô ráo. Trước khi mang vào rừng kèo, thường thoa một lớp sáp ong để mời gọi ong trinh sát.
Người gác kèo phải chọn nơi cây tràm thấp và trổ bông kéo dài đủ cho ong lấy mật; kế đến chọn hướng gió, hướng ánh sáng rọi vào tổ và khoảng trống để ong bay lên đi lấy mật và đáp xuống dễ dàng.
Để thực hiện việc gác kèo ong, người thợ đầu tiên phải chuẩn bị bộ kèo, gồm thân kèo, trụ đỡ và cây nạng. Bộ kèo này thông thường được làm từ cây tràm, thân suông, có đường kính từ 10-15 cm, lột sạch vỏ, khô ráo. Trước khi mang vào rừng kèo, thường thoa một lớp sáp ong để mời gọi ong trinh sát.
Người gác kèo phải chọn nơi cây tràm thấp và trổ bông kéo dài đủ cho ong lấy mật; kế đến chọn hướng gió, hướng ánh sáng rọi vào tổ và khoảng trống để ong bay lên đi lấy mật và đáp xuống dễ dàng.
Việc gác kèo ong đòi hỏi người thợ phải có kinh nghiệm, không phải ai gác ong cũng đến làm tổ. Người ăn ong phải chọn vị trí gác kèo sao cho có ánh mặt trời rọi vào hai cả hai bên của kèo, nghĩa là ở buổi nào, cũng phải có ánh mặt trời chiếu vào. Kèo được gác theo hình mái nhà. Thời gian gác kèo tốt nhất là từ lúc mặt trời mọc đến 9 giờ sáng vì thời điểm này sẽ xác định đúng hướng mặt trời mọc.
Sau khi chuẩn bị xong mọi thứ, thợ “ăn ong” phải xóa hết dấu vết, vì bị động, ong sẽ không đến “ốp” (làm tổ). Với người thợ dày dạn kinh nghiệm, gác kèo xong là họ có thể đoán được khi nào ong đến ốp và thời gian nào quay lại để “ăn ong”.
Thời gian ong làm tổ từ khoảng 20 đến 30 ngày nhưng cũng có khi buổi sáng gác, chiều đã có ong đóng tổ. Dựa vào kinh nghiệm để đánh giá thời điểm “ăn ong”: Khi thấy tổ ong bít kín không còn lỗ nào thì có thể lấy mật hoặc sau khi gác kèo khoảng 20 ngày. Những kèo không có ong thì kiểm tra lại trảng, ánh sáng, hướng gió,… để điều chỉnh cho hợp lý.
Thời gian ong làm tổ từ khoảng 20 đến 30 ngày nhưng cũng có khi buổi sáng gác, chiều đã có ong đóng tổ. Dựa vào kinh nghiệm để đánh giá thời điểm “ăn ong”: Khi thấy tổ ong bít kín không còn lỗ nào thì có thể lấy mật hoặc sau khi gác kèo khoảng 20 ngày. Những kèo không có ong thì kiểm tra lại trảng, ánh sáng, hướng gió,… để điều chỉnh cho hợp lý.
Nguồn gốc cái tên “ăn ong” là do người thợ khi lấy mật ở tổ ong thường ăn thưởng thức ngay một phần mật và tàng ong non như tự thưởng cho mình, đồng thời đây cũng là cách để người thợ thẩm định chất lượng của mật.
“Ăn ong” vào thời gian nào trong ngày cũng được, tuy nhiên tốt nhất vào sáng sớm (5 đến 8 giờ) vì ít gió, còn sương đêm nên khó bắt lửa, ít rủi ro cháy rừng.
Để lấy mật, người thợ phải mang theo một chiếc gùi, cái hộp quẹt, nhúm bùi nhùi bằng xơ dừa, hay vỏ tràm khô, một con dao và chiếc mạng che mặt. Sau đó, người thợ chọn vị trí thuận tiện, phía đầu gió mà đốt đuốc, đôi khi dùng sào dài đưa đến gần tổ. Gặp khói cay, ong bay đi, dùng dao cắt phần mật, tách phần mật ra khỏi phần tàng, rồi cắt bớt phần tàng có màu đen, chỉ chừa lại một phần tàng thường khoảng 1/3 tổ để ong làm tổ mới.
Để lấy mật, người thợ phải mang theo một chiếc gùi, cái hộp quẹt, nhúm bùi nhùi bằng xơ dừa, hay vỏ tràm khô, một con dao và chiếc mạng che mặt. Sau đó, người thợ chọn vị trí thuận tiện, phía đầu gió mà đốt đuốc, đôi khi dùng sào dài đưa đến gần tổ. Gặp khói cay, ong bay đi, dùng dao cắt phần mật, tách phần mật ra khỏi phần tàng, rồi cắt bớt phần tàng có màu đen, chỉ chừa lại một phần tàng thường khoảng 1/3 tổ để ong làm tổ mới.
Vì tập quán của con ong là khi lớn lên sẽ tách đàn làm tổ ong mới tiếp tục cho mật. Các thao tác trên được tiến hành nhanh gọn trong khoảng 2 đến 3 phút. Một tổ ong nếu biết cách lấy mật sẽ lấy được 3 đến 4 lần, nếu không biết cách chỉ lấy một lần là ong bỏ đi. Mỗi tổ ong trung bình cho khoảng 3-5 lít mật, có tổ cho đến 10 lít. Vào mùa khô mật ong nhiều và chất lượng tốt hơn mùa mưa, vì mùa mưa ong sinh con ít làm mật và lượng nước trong mật nhiều.
Trong quá trình ăn ong, khi bị ong đánh (đốt, chích) phải chạy ngược hướng gió. Việc bị ong đốt là chuyện thường xảy ra, có lúc gặp rắn độc, heo rừng thì tùy trường hợp mà có cách xử lý khác nhau. Vì thế, mỗi nhóm ăn ong thường có từ 3 người trở lên để hỗ trợ nhau.
Sau khi cắt lấy tàng ong ra khỏi tổ thì vắt hoặc ép lấy mật. Mật ong được trữ trong các bình bằng thủy tinh màu tối là tốt nhất, để nơi thoáng mát tránh tiếp xúc trực tiếp với ánh nắng mặt trời. Không nên lược hoặc vớt hết phần sáp ong nổi trên mặt vì như vậy mật ong sẽ dễ bị chua. Mật ong thu hoạch vào mùa khô có thể để được 3 năm, mùa mưa thì thời gian để ngắn hơn, để lâu bị bọt vì lượng nước trong mật nhiều…
Mật ong rừng U Minh Hạ là đặc sản riêng của đất Cà Mau và nổi tiếng với chất lượng tốt nhất không nơi nào sánh được. Một số nghiên cứu cho thấy, mật ong rừng tràm là tự nhiên, chất lượng rất tốt, có nhiều dược tính, được dùng nhiều trong các sản phẩm dược đông y và sử dụng để bồi bổ sức khỏe. Tổ ong không chỉ cho mật mà còn cho các sản phẩm khác như sáp ong dùng để làm đèn cầy, ong non dùng chế biến các món ăn: tàng ong non chấm mật, gỏi ong non, tàng ong non lăn bột chiên,… Nhờ chất lượng hảo hạng, màu vàng óng, thơm mùi hoa tràm đặc trưng, để lâu vẫn giữ nguyên hương vị, cuối năm 2011, Cục Sở hữu trí tuệ thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ đã công nhận sản phẩm mật ong U Minh Hạ là nhãn hiệu tập thể.
Để có được sản phẩm “Mật ong U Minh Hạ” nổi tiếng như hiện nay, người dân đã đầu tư rất nhiều thời gian và công sức cho nghề gác kèo ong. Nhằm ghi nhận sự sáng tạo và mang tính đặc trưng của người dân vùng đất rừng U Minh Hạ, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã công nhận Nghề gác kèo ong ở huyện U Minh và Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau là Di sản văn hóa phi vật thể cấp Quốc gia theo Quyết định số 4613/QĐ-BVHTTDL ngày 20/12/2019. Đây là động lực để những người gắn bó với nghề này có điều kiện phát triển kinh tế bền vững và góp phần bảo vệ rừng ngày một tốt hơn.
Gác kèo ong là nghề đặc trưng của vùng rừng U Minh Hạ, thể hiện rõ nét nhất những dấu ấn của các bậc tiền nhân. Họ đã để lại cho đời một nghề nghiệp hết sức độc đáo, để lại cho con cháu một sản phẩm tinh thần đặc sắc, đó là những kinh nghiệm, tri thức quý báu được tích lũy từ cuộc sống hàng ngày, thể hiện tính sáng tạo và thích nghi với môi trường trong quá trình khai hoang mở cõi.
Nghề gác kèo ong không chỉ có giá trị về kinh tế, là nguồn thu nhập nuôi sống bao gia đình bao thế hệ mà còn là nghề mang đậm bản sắc văn hóa địa phương, có sức sống bền bỉ, gắn chặt với rừng tràm và tồn tại hàng trăm năm qua.
Gác kèo ong là nghề đặc trưng của vùng rừng U Minh Hạ, thể hiện rõ nét nhất những dấu ấn của các bậc tiền nhân. Họ đã để lại cho đời một nghề nghiệp hết sức độc đáo, để lại cho con cháu một sản phẩm tinh thần đặc sắc, đó là những kinh nghiệm, tri thức quý báu được tích lũy từ cuộc sống hàng ngày, thể hiện tính sáng tạo và thích nghi với môi trường trong quá trình khai hoang mở cõi.
Nghề gác kèo ong không chỉ có giá trị về kinh tế, là nguồn thu nhập nuôi sống bao gia đình bao thế hệ mà còn là nghề mang đậm bản sắc văn hóa địa phương, có sức sống bền bỉ, gắn chặt với rừng tràm và tồn tại hàng trăm năm qua.
Mekong Delta Explorer
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét