Cổng đền thờ họ Mạc nơi chân núi Lăng / Bình San.
Hoành phi: “Mạc công miếu”.
Đối liễn: “Nhất môn trung nghĩa gia thanh trọng / Thất diệp phiên hàn quốc sủng vinh” (Một nhà trung nghĩa, danh thơm cả họ / Bảy lá dậu che, khắp nước quý yêu).
Ảnh: Phanxipăng
Bức mật thư truyền khẩu kia cứ như bài toán hóc búa, thách đố bao lớp người động não, thậm chí xả thân, để săn lùng đáp số. Lần này, rằm tháng giêng Nhâm Ngọ (26-2-2002), trở lại Hà Tiên, tôi thử tìm hiểu những cách lý giải mật thư đã và đang tồn tại ở địa phương.
Ngay dòng đầu Khả thuỷ sơn nhơn, ai cũng biết là địa danh Hà Tiên. Theo phép chiết tự chữ Hán, Hà 河 gồm chữ khả kèm bộ thuỷ; Tiên 仙 gồm chữ sơn kèm bộ nhơn / nhân đứng. Cũng theo lối chiết tự thì dòng thứ 3 và 4 chỉ rõ họ tộc khai sáng đất này:
Nhị thập viết đại
Ấp trồng cây trái
Bộ hai mươi ở trên, chữ viết nằm giữa, chữ đại nằm dưới, chính là ký tự trỏ họ Mạc 莫. Đó là cách ghi họ Mạc vẫn phổ biến nhiều nơi, cả Trung Hoa lẫn Việt Nam. Riêng trường hợp Mạc Cửu cùng hậu duệ của ông, chữ Mạc thường được thêm bộ ấp bên phải, thành 鄚. Kiểu viết ấy khởi phát bởi chúa Nguyễn muốn phân biệt với nhà Mạc từng tiếm ngôi nhà Lê hồi thế kỷ XVI; lại ngụ ý ghi công lập ấp, mở mang vùng biên địa của dòng họ mới. Nhiều người trong giới nghiên cứu đã thừa nhận điều này. Như 陈荆和 / Trần Kinh Hoà / Chen Ching Ho (1927 – 1995), chuyên gia người Hoa nổi tiếng về Việt Nam học, trình bày qua bài Họ Mạc và chúa Nguyễn ở Hà Tiên đăng trên tạp chí Văn Hoá Á Châu số 7 (Sài Gòn, 1958). Hoặc Phan Khoang với cuốn Việt sử xứ Đàng Trong (sđd), Nguyễn Văn Sâm với công trình Văn học Nam Hà, văn học Đường Trong thời phân tranh (NXB Lửa Thiêng, Sài Gòn, 1972), v.v.
Tuy nhiên, lúc viếng thăm di tích 44 ngôi mộ cổ tại Bình San, trong đó có 2 mộ song táng, tôi thấy không ít tấm bia ghi chữ Mạc chẳng kèm bộ ấp. Ví dụ bia “Cáo phong Trấn quốc Nghị vũ Cửu Lộc hầu Mạc công chi mộ” (tức Mạc Cửu) do đích thân “hiếu nam Thiên Tứ (tức Thiên Tích) lập thạch”; hoặc bia “Hoàng Việt hiển tỉ Từ Thành thục nhân Mạc phủ Nguyễn Thị chi mộ” (tức vợ thứ của Mạc Thiên Tích). Ấy là chi tiết quan trọng mà tôi sẽ đề cập sau.
Tuy nhiên, lúc viếng thăm di tích 44 ngôi mộ cổ tại Bình San, trong đó có 2 mộ song táng, tôi thấy không ít tấm bia ghi chữ Mạc chẳng kèm bộ ấp. Ví dụ bia “Cáo phong Trấn quốc Nghị vũ Cửu Lộc hầu Mạc công chi mộ” (tức Mạc Cửu) do đích thân “hiếu nam Thiên Tứ (tức Thiên Tích) lập thạch”; hoặc bia “Hoàng Việt hiển tỉ Từ Thành thục nhân Mạc phủ Nguyễn Thị chi mộ” (tức vợ thứ của Mạc Thiên Tích). Ấy là chi tiết quan trọng mà tôi sẽ đề cập sau.
Bia mộ Mạc Cửu: “Cáo phong Trấn quốc Nghị vũ Cửu Lộc hầu Mạc công chi mộ”. Lạc khoản phải: “Long phi Ất Mão trọng tiết”. Lạc khoản trái: “Hiếu nam Thiên Tứ lập thạch”. Lưu ý rằng họ Mạc được khắc 莫 chứ không phải 鄚. Ảnh: Phanxipăng
Bình San / núi Lăng có quần thể tẩm mộ, chùa chiền, cùng Mạc công tam vị miếu, thực sự giữ vai trò đặc biệt đối với Hà Tiên xưa cũng như nay. Nếu chọn đây làm “toạ độ gốc”, có thể suy đoán một số câu chữ trong mật thư đang xét mang những ý nghĩa nhất định. Chẳng hạn:
Toạ nơi hướng khảm
Trông ra hướng kiền
Là tên gọi đôi quẻ trong kinh Dịch, khảm và càn / kiền ở trường hợp cụ thể này ứng theo tiên thiên hay hậu thiên bát quái? Sử dụng tiên thiên bát quái của Phục Hy, thì khảm chỉ phương đoài, càn chỉ phương nam. Dùng hậu thiên bát quái của Chu Văn Vương, thì khảm chỉ phương bắc, càn chỉ tây bắc. Căn cứ địa hình thực tế, người ta dễ theo hậu thiên hơn. Song, đích xác là điểm nào để thoả mãn điều kiện toạ lạc hướng bắc và nhòm về hướng tây bắc? Núi Đề Liêm ư? Núi Địa Tạng ư? Hay là Vân sơn – Thạch động? Thắng cảnh “động đá nuốt mây” có vẻ hữu lý, nhất là nó tỏ ra phù hợp với cặp lục bát:
Trời tây bóng ngã chênh chênh
Soi vào hang đá long lanh ngọc vàng
Sách Du lịch Hà Tiên (sđd) nhận định: “Hai câu này cho ta biết vị trí của hang. Vị trí này khi mặt trời chênh chênh về tây sẽ chiếu vào cửa hang. Có phải là cửa hang Đại Bàng ở Thạch Động không? Vì khi mặt trời ngả về tây thì ánh nắng chiếu xuyên qua hang Đại Bàng đến miệng hang Âm Phủ.”
Anh Bùi Văn Thạnh, thường được gọi Tám Thạnh, nguyên chủ tịch Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật tỉnh Kiên Giang, nhiệt tình đưa tôi tới Thạch động. Hòn núi đá vôi nọ nằm bên quốc lộ 80, cách cửa khẩu Xà Xía chỉ quãng ngắn. Chẳng rõ vì sao lối vào động lại bị bê tông hoá với mấy chữ Hán tô đắp và sơn phết màu mè: 仙山洞. Phiên âm Hán-Việt: Tiên Sơn động. Cảnh chướng mắt đó từng khiến thi sĩ Đông Hồ khi biên soạn Hà Tiên thập cảnh (NXB Bốn Phương, Sài Gòn, 1960 – NXB Văn Hoá tái bản, Hà Nội, 1996) phải kêu than rằng “phần nhân tạo đã làm hỏng mất phần thiên nhiên, cảnh tiên đã bại hoại hư nát bởi tay phàm.”
Thạch Động ở Hà Tiên. Ảnh: Phanxipăng
Vào Thạch động, anh Tám Thạnh chỉ tôi xem hang Thạch Sanh, hang Đại Bàng, và hốc đá – chỗ mà cuối năm 1945, người ta tìm thấy thủ cấp của viên sĩ quan Nhật Bản gói trong mảnh vải trắng. Sách Truyện tích Việt Nam của Lê Hương (Sài Gòn, 1970) cho rằng đấy là kết cục một “pha” tự sát kiểu harakiri (5) vì… tình ái.
Tôi hỏi:
– Hang Âm Phủ đâu?
Anh Tám Thạnh trỏ một gờ tròn nhỏ bằng xi măng trồi sát nền đất, kề vách đá:
– Đây nè. Hang bị lấp lâu rồi. Nghe mấy ông già bà lão bảo trước kia hang sâu lắm, thả quả dừa có đánh dấu xuống thì ít lâu sau ngư dân vớt được ngoài biển Mũi Nai. Lại nghe đồn thuở xưa có những kẻ to gan, dám leo xuống hang thăm dò. Phần lớn đều mất tích. Sống sót trở lên thì rất hiếm hoi, nhưng đều hoá điên vì quá hãi hùng! Quan đầu tỉnh Hà Tiên hồi đó là người Pháp, hạ lệnh lấp hang để tránh nguy hiểm. Thiên hạ nghĩ đó chỉ là cái cớ, chứ việc này hẳn che giấu ý đồ gì.
– Việc lấp hang Âm Phủ rất có thể diễn tiến gần đồng thời với việc việc quật mồ Hiếu Túc Thái phu nhân họ Nguyễn – chánh thất của Mạc Thiên Tích – chăng?
– Dân chúng nơi đây đoan chắc cả hai việc đều liên quan vấn đề kho báu, Phanxipăng à.
Thạch nhũ / vú đá của Thạch Động. Ảnh: Đăng Định
Chuyện xảy ra vào năm Tân Hợi 1911, lại đúng kỳ thanh minh trong tiết tháng ba / lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh (6). Lấy lý do khai thác đất đá phục vụ kế hoạch kiến thiết đô thị, tham biện Hà Tiên lúc bấy giờ là Roux-Serret điều động lực lượng tù khổ sai đào bới lăng mộ Thái phu nhân ở Bình San suốt 10 ngày ròng rã. Chiều hôm sau, chính quyền thực dân mới cho phép ông Mạc Tử Khâm – cháu 7 đời của Mạc Cửu – cùng thân bằng quyến thuộc và hội đồng hương chức đến chứng kiến cảnh tháo dỡ quan tài. Di cốt bà vợ cả của Mạc Thiên Tích được cải táng bên trái phía dưới lăng Mạc Cửu, cũng ở Bình San.
Sự vụ có lắm điều khiến thiên hạ xôn xao không ngớt. Há lẽ cần lấy ít đất đá làm vật liệu xây dựng mà cam tâm phá huỷ mồ mả tiền nhân, hơn nữa lại là di tích đáng bảo tồn? Ví muốn khai thác đất đá thì khắp Hà Tiên thiếu gì đồi núi, hà tất phải xâm phạm nơi chốn được xem linh thiêng như Bình San? Di dời âm phần có kiến trúc nhỏ bé và chẳng mấy kiên cố, làm gì tốn hơn chục ngày với sự bảo vệ bí mật cực kỳ kỹ lưỡng vậy? Quật mồ rồi chôn lại, hai địa điểm rất gần nhau và cùng trong một khu vực, còn hơn 40 ngôi mộ khác cớ sao chẳng đụng chạm?
Nơi đây, vào tiết thanh minh năm Tân Hợi 1911, tham biện Hà Tiên là Roux-Serret hạ lệnh quật mồ Hiếu Túc Thái phu nhân (vợ cả của Mạc Thiên Tứ / Tích). Ảnh: Kỳ Anh
Qua cuốn Văn học Hà Tiên (NXB Quỳnh Lâm, Sài Gòn, 1970 – NXB Văn Nghệ TP.HCM tái bản, 1996), Đông Hồ tường thuật khá chi tiết vụ quật mồ Thái phu nhân, rồi rút ra kết luận: “Việc lấy đất đá là một cái cớ che đậy hành vi mờ ám của người dụng ý khai quật mộ phần. Họ muốn tìm trong đó một kho tàng.”
Mộ Thái phu nhân Nguyễn Hiếu Túc hiện nay tại núi Lăng / Bình San. Ảnh: Kỳ Anh
____________
(5) Harakiri còn gọi seppuku, tiếng Nhật ghi 切腹 , phiên âm Hán-Việt thành thiết phúc, nghĩa là mổ bụng.
(6) Trích Truyện Kiều của Nguyễn Du.
(5) Harakiri còn gọi seppuku, tiếng Nhật ghi 切腹 , phiên âm Hán-Việt thành thiết phúc, nghĩa là mổ bụng.
(6) Trích Truyện Kiều của Nguyễn Du.
Phanxipăng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét